1. "Ðất nước này là đất nước của nhân dân/ Ðất nước của ca dao, thần thoại" (Nguyễn Khoa Ðiềm). Vì thế, đẹp thay, trên đất nước này những gì đẹp nhất đều được nhân dân ca dao hóa để ngợi ca, tôn thờ. Và Bác kính yêu của chúng ta cũng luôn hóa thân vào trong những vần ca dao huyền diệu, đẹp đẽ và trong sáng vô ngần như thế.
Sinh thời, Bác đặc biệt yêu thích những vần ca dao, dân ca và tục ngữ của đất nước. Thơ văn Người và cả những lời nói đời thường của Người luôn thấm đượm chất dân ca. Cả đến lúc Người sắp đi xa mà Người vẫn khát khao được nghe một câu hò xứ Nghệ. Vì thế, trong những vần ca dao của nhân dân ta đều in đậm hình ảnh, dấu ấn của Người. Ôi, những vần ca dao chan chứa nghĩa tình, sâu nặng tri ơn ...
"Tháp Mười đẹp nhứt bông sen/ Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ/ Bông sen thì để lễ chùa/ Cụ Hồ thì để tôn thờ trong tâm" (Bảo Ðịnh Giang). Bài ca dao Bác Hồ và bông sen của nhà thơ Bảo Ðịnh Giang là tâm tình, là tấm lòng của nhà thơ đối với Bác kính yêu. Nhưng mỗi một người dân đất Việt đều tìm thấy tâm tình và nỗi lòng của mình trong đó cho nên bài ca dao đó đã trở thành tài sản chung của dân tộc ta, nhân dân ta- nhất là hai câu thơ đầu đã được phổ thông hóa (lược bớt các phương ngữ Nam Bộ, thay bằng từ phổ thông) : " Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ".
Ðất Hồng Lam cũng là một mảnh đất của ca dao và thần thoại. Những làn điệu dân ca xứ Nghệ luôn làm xao xuyến lòng người. Người xứ Nghệ cũng đặc biệt yêu thích ca dao, dân ca và hay sáng tác những vần ca dao nặng tình, đầy nghĩa. Nhất là những vần ca dao viết về Bác và về những lời Bác dạy chúng ta : " Bác Hồ đã dạy chúng ta/ Còn Mỹ còn đánh chẳng tha một thằng/ Chúng ta hứa với Bác rằng/ Còn Mỹ còn đánh một thằng không tha/ Bác trao cờ tặng quê ta/ Lá cờ chiến thắng là quà lập công/ Cờ bay đỏ đất Lam Hồng/ Cờ bay muôn nẻo, lập công muôn miền/ Ngắm cho trúng, bắn cho tin/ Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ (Dương Huy). Vâng, những người dân quê Bác đã làm theo lời Bác "Không có gì quí hơn độc lập tự do" mà mài sắc dũng khí chiến đấu, rèn dũa tinh thần tiến công cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng. Ý chí đó, tinh thần đó cũng là ý chí và tinh thần của cả dân tộc ta. Một dân tộc mà khi trên đất nước mình còn thằng Mỹ thì không thể có hạnh phúc nên trong lòng mỗi một con người luôn chuẩn bị cho mình tư thế sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng : " Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ/ Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/ Chân còn đạp đỉnh non cao/ Mà lòng đã ở chiến hào tiến công (Kim Quốc Hoa). Lời dạy của Bác, hình ảnh người Cha già kính yêu luôn có sức động viên quân dân ta tiến lên giành chiến thắng. Hình ảnh Bác luôn hiện hữu trên mỗi chặng đường hành quân vất vả, trong những cơn gió núi, mưa nguồn, trong mỗi bước tiến công và cả trong niềm vui thắng lợi. Vành lá ngụy trang kia cũng được mọi người hái từ rừng cây ơn Bác, đôi dép cap su được mọi người gọi là đôi dép Bác Hồ ...những vần thơ xuân của Bác cũng thôi thúc giục giã quân dân ta vào mùa chiến dịch. Tất cả, tất cả đều mang dấu ấn thiêng liêng của Bác kính yêu : " Sáng nay ngược đỉnh đèo cao/ Lắng nghe thơ Bác gọi vào mùa xuân/ Ðường xa như xích lại gần/ Mồ hôi thấm áo mấy lần vẫn vui/ Ta lên trồng cột lưng trời/ Gọi hoa sứ nở theo lời thơ xuân (Việt Nguyên). Lời Bác, tên Bác thấm sâu vào lòng mỗi người và tỏa khắp núi sông. Từ đảo khơi xa, trong tiếng sóng vẫn lắng nghe những lời Bác dạy : " Ðảo xa sóng dội bốn bề/ Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi/ Quân nghe phơi phới niềm vui/ Biển nghe dậy sóng hòa lời thiết tha/ Rừng nghe Bác gọi nở hoa/ Pháo nghe, pháo đón tầm xa diệt thù" (Nguyễn Vuông). Ðẹp thay, hình ảnh Bác được đồng bào các dân tộc thể hiện trong những vần ca dao chân thực, sinh động với những liên tưởng, so sánh độc đáo : " Hồ Chí Minh- Người là con sông lớn/ Người là mặt trời, Người là mặt trăng/ Mùa lạnh nhắc tên Hồ Chí Minh- cái bụng ấm/ Mùa nắng nhắc tên Hồ Chí Minh- mây thêu mặt trời hồng/ Mùa thu nhắc tên Hồ Chí Minh- mây lắng trời trong/ Mùa xuân nhắc tên Hồ Chí Minh- cây cỏ đâm nhựa trổ bông"; hay : "Lên rừng nhắc tên Hồ Chí Minh- quên cả chân chồn, leo dốc nhanh/ Xuống đồng nhắc tên Hồ Chí Minh- cấy lúa suốt ngày không thấy mệt". Miền Nam luôn ở trong trái tim Người, và bởi vậy, hình ảnh Người luôn hiển hiện trong tâm khảm của mỗi một người dân miền Nam yêu quí. Muôn triệu tấm lòng, muôn triệu trái tim luôn hướng về Bác, tri ơn tấm lòng của Bác : "Trời còn khi nắng khi mưa/ Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi/ Dù cho vật đổi sao dời/ Ơn sâu nghĩa nặng đời đời không quên". Ý thức hướng về Bác, tấm lòng mong mỏi Bắc Nam xum họp một nhà của nhân dân miền Nam thật lớn lao : "Bắc Nam là con một Cha/ Là gà một mẹ, là hoa một cành/ Nguyện cùng biển thẳm non xanh/ Cùng nhau một chí đấu tranh vững bền. Cho dù Mỹ-ngụy với bao nhiêu mưu mô thâm độc, bao trò lửa phỉnh, mị dân, nhưng "Trắng đen đã rõ đôi đường/ Lòng dân càng nhớ, càng thương cụ Hồ/ Dẫu rằng biển cạn sông khô/ Nghìn năm công đức Cụ Hồ còn ghi..".
Hiện tôi đang tích cực sưu tầm lại những vần ca dao viết về Bác Hồ kính yêu với hai lí do : thứ nhất, những vần ca dao viết về Bác thì còn rải rác rất nhiều trên các trang sách báo và trong dân gian; thứ hai là thông qua việc sưu tầm để cho mình, cho cháu con mình, hôm nay và mai sau ngày càng hiểu thêm về Bác, hiểu thêm về một bậc vĩ nhân đã luôn hóa thân trong cuộc sống của mỗi một người dân. Và như nhân dân đã từng ngợi ca Người : "Cụ Hồ với dân/ Như chân với tay/ Như chày với cối/ Như cội với cành/ Toàn dân dốc một lòng thành/ Làm tròn nhiệm vụ, tỏ tấm tình Bác thương"; hay : "Cụ Hồ ở giữa lòng dân/ Tuy xa xa lắm, nhưng gần gần ghê/ Mỗi khi Cụ gửi thư về/ Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng" .... Bác ơi, mỗi khi Xuân về, Tết đến là chúng con lại nhẩm hát bài ca dao đã được phổ nhạc của nhà thơ quân đội Tạ Hữu Yên : "Ðôi dép đơn sơ/ Ðôi dép Bác Hồ/ Bác đi từ ở chiến khu đi về/ Phố phường. Trận địa/ Nhà máy. Ðồng quê/ Ðều in dấu dép Bác về Bác ơi/ Dép này Bác trải đường dài/ Dép này Bác mở tương lai nước nhà ....
Cho đến bây giờ, trên bước đường đi tới, trong bao sự đổi mới đi lên thì "Dấu dép Cha Già vẫn đang còn tiếp tục dẫn lối con đi" ...
-----------
2. Lúc sinh thời, mỗi khi nhắc tới miền Nam, Bác nói: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”. Những năm tháng cuối đời, Bác luôn chuẩn bị cho mình một cơ hội vào thăm đồng bào miền Nam ruột thịt...
Đồng bào miền Nam cũng luôn nhớ Bác, vị cha già dân tộc, Bác Hồ kính yêu. Và những vần ca dao thắm tình dâng lên Bác của họ đã ra đời:
Miền Nam là của Việt Nam
Miền Nam là của giang sơn Lạc Hồng
Miền Nam chỉ có một lòng
Miền Nam chỉ viết một dòng chữ thôi
Một dòng chữ sáng muôn đời
Một dòng chữ có vạn người mến thương
Một dòng chữ sáng muôn phương
Cần, kiệm, liêm, chính tấm gương chói lòa
Tay để lòng nở trăm hoa
Đây là dòng chữ: Cha Hồ Chí Minh
Miền Nam “đi trước về sau” đánh giặc suốt ba mươi năm không nghỉ, chịu trăm đắng ngàn cay. Trong vô vàn thiệt thòi mà nhân dân miền Nam gánh chịu, có một thiệt thòi lớn: phải xa Bác Hồ, không có điều kiện gặp Bác như đồng bào miền Bắc. Thậm chí, không được nhìn ảnh Bác vì sợ giặc khủng bố. Và nỗi nhớ thương ấy càng da diết hơn. Họ mong thống nhất nước nhà, Bắc-Nam sum họp, Bác cháu gặp nhau, thỏa lòng mong ước:
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ câu Bác dặn, nhớ điều Bác khuyên.
Những lời vàng ngọc không quên
Con đường thống nhất càng bền đấu tranh.
Đồng bào miền Nam hiểu rằng, trong niềm vui chung đó, có niềm vui riêng mà Bác Hồ đem lại: tình yêu đôi lứa vẹn tròn.
Cắt tấm lụa đào em đề ba chữ
Chữ trung với Bác, chữ hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh.
Dù xa xôi em vẫn giữ lòng thành
Có Bác chỉ đường dẫn lối thì hai đứa mình sẽ gặp nhau.
Hướng đến Bác Hồ, đồng bào miền Nam càng tin vào sức mạnh chính nghĩa của mình trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước. Người chiến sĩ cách mạng giữ vững khí tiết đấu tranh với địch trong nhà tù:
Đêm nay mười chín tháng năm
Hồn con sáng tợ trăng rằm trung thu
Con đang chúc thọ trong tù
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Tung qua lưới sắt con tìm đến Cha
Ca dao dâng Bác thật phong phú, thể hiện tấm lòng của từng người dân miền Nam với Bác, mang sắc thái địa phương trong tâm tình của mình. Họ hình tượng hóa tình cảm đó vào những gì thân thiết nhất gắn liền với miền đất mà họ đang chiến đấu để giữ gìn. Đấy là hình ảnh chiếc nón bài thơ bao đời của người dân xứ Huế:
Nước dưới sông khi dâng khi cạn
Trăng trên trời khi sáng khi lu
Ai ra miền Bắc thưa với cụ Hồ
Lòng miền Nam vẫn tròn vành vạnh
như chiếc nón bài thơ đội đầu.
Người dân Bến Tre đồng khởi nhớ Bác mênh mông như ruộng lúa, rừng dừa của chính họ vậy:
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ
Miền Nam mong nhớ Bác Hồ
Dừa Bến Tre nước ngọt , luá Cần Thơ trĩu vàng.
Nước non, sông núi, nắng gió... gắn bó với cuộc sống của người dân miền Nam. Chính vì những gấm vóc non sông đó mà họ ra sức chiến đấu giữ gìn. Nước non này có toàn vẹn thì công lao Bác Hồ soi đường chỉ lối càng lớn, ơn Bác càng nặng. Sức mạnh của dân tộc được nhân lên gấp bội trong cuộc chiến tranh của nhân dân khi được hiệu triệu dưới hình ảnh Bác Hồ. Người dân Khánh Hòa đã ví:
Gió nào bằng gió Tu Bông
Sức nào bằng sức nhân dân Cụ Hồ
Hình ảnh nước non và hình ảnh của Bác trong tâm trí người dân miền Nam hòa quyện lẫn nhau trong vần ca dao Quảng Ngãi- Bình Định:
- Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ
Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ
Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ
Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu
Nước sông Trà in hình núi Ấn
Dừa Trung Lương soi bóng Lại Giang
Nhìn lên cờ đỏ sao vàng
Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi.
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Lời Bác rất thấm thía trong lòng các dân tộc ở miền Nam. Người dân Tây Nguyên nhận ra rằng:
Vùng Tây Nguyên rừng thiêng nước độc
Tám, chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương
Ba năm ở với “quốc gia” khổ sở trăm đường
Nay bắt phu, bắt lính, nói gạt nói lường hại dân
(Ca dao dân tộc Mơ nông)
Người Hơ-rê chất phác, nói “bụng Bác Hồ” đẹp hơn cả hoa Ê-pan nhất buôn, nhất rừng của họ. Cũng như người Ê-đê thấy “bụng Bác Hồ” tốt với dân tộc mình thế nào. Họ cho thấy:
Người cứu dân tộc mình
Cho suối đánh dần, cho hoa Gơ- ma nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ
Là Bác Hồ Chí Minh!
(Ca dao dân tộc Ê-đê)
Biết nói làm sao hết những lời ca cất lên từ đáy lòng thương nhớ và biết ơn vô hạn của đồng bào miền Nam với Bác.
Ca dao dâng Bác, nhất là ca dao của đồng bào miền Nam “đi trước về sau” là nguồn suối mát vô tận, thể hiện tấm lòng trân trọng và yêu thương của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân miền Nam nói riêng với con người đẹp nhất: Hồ Chí Minh.
Tháp mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
---------------
3. Trong lịch sử văn học dân tộc và thế giới, chưa có danh nhân nào được "ca dao hóa" nhiều như Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Nhà thơ Lê Anh Xuân đã từng viết:
Điệu lục bát, khúc dân ca
Việt Nam là Bác, Bác là Việt Nam
Sinh thời, Bác rất thích dùng ca dao, tục ngữ trong các bài viết của mình để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tuyên truyền cách mạng. Những ngày bệnh trọng, Bác vẫn thèm nghe "một câu hò xứ Nghệ" - một khúc hát dân ca. Ngay trong bản "Di chúc" thiêng liêng trước lúc đi xa, Người vẫn còndặn lại đồng bào, đồng chí bằng một câu ca dao lục bát biến thể:
Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Có thể nói: Bác và Ca dao, Ca dao và Bác đã có sự "hóa thân" hài hòa và nồng thắm. Còn gì đẹp hơn, tự hào hơn khi nhân dân ta từ núi rừng, hải đảo xa xôi tới bưng biền Đồng Tháp đã dành những vần ca dao chứa chan tình nghĩa, biết ơn về Bác để dâng lên Người:
Bác Hồ là vị Cha chung
Là sao Bắc đẩu, là vầng Thái dương.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: "Bác sống như trời đất của ta", Bác như ánh sáng, như khí trời không thể thiếu được trong cuộc đời mỗi con người Việt Nam, và ai cũng cảm thấy:
Tự hào biết mấy Bác ơi
Bác cho con cả cuộc đời tự do.
Hình ảnh Bác Hồ trong ca dao của đồng bào các dân tộc thiểu số được thể hiện trước hết là ởchỗ: Bác Hồ là hiện thân của sự đoàn kết dân tộc. Trong "Thư gởi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam" họp tại Plây Ku ngày 19-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "… Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xơ đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ có nhau, no đói giúp nhau".
Đồng bào Tây Nguyên đã có bài ca dao về Bác Hồ với những so sánh liên tưởng thật xúc động:
Hồ Chí Minh - người là con sông lớn
Người là mặt trời, Người là mặt trăng
Mùa lạnh nhắc tên Hồ Chí Minh – cái bụng ấm
Mùa nắng nhắc tên Hồ Chí Minh – mây thêu mặt trời hồng
Mùa thu nhắc tên Hồ Chí Minh – mây lắng trời trong
Mùa xuân nhắc tên Hồ Chí Minh – cây cỏ đâm nhựa trổ bông.
Người dân Tây Nguyên nhận ra rằng:
Vùng Tây Nguyên rừng thiêng nước độc
Tám, chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương
Ba năm ở với "quốc gia" khổ sở trăm đường
Nay bắt phu, bắt lính, nói gạt nói lường hại dân
(Ca dao dân tộc Mơ- Nông)
Người Hơ-rê chất phác, nói "bụng Bác Hồ" đẹp hơn cả hoa Ê-pan nhất buôn, nhất rừng của họ. Cũng như người Ê-đê thấy "bụng Bác Hồ" tốt với dân tộc mình thế nào. Họ cho thấy:
Người cứu dân tộc mình
Cho suối đánh đàn, cho hoa Gơ- ma nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ
Là Bác Hồ Chí Minh!
(Ca dao dân tộc Ê-đê)
Đồng bào dân tộc Êđê, Giarai, Ba-na cũng thường hát:
Người Ê đê chưa gặp mặt Bác Hồ
Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ
Người Gia rai chưa được ra miền Bắc
Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ
Vì vậy mà, chỉ cần nhắc đến tên Bác:
Lên rừng nhắc tên Hồ Chí Minh/quên cả chân chồn, leo dốc nhanh
Xuống đồng nhắc tên Hồ Chí Minh/cấy lúa suốt ngày không thấy mệt
Bữa ăn nhắc tên Hồ Chí Minh/đôi đũa và cơm như và ngọc
Nằm ngủ nhắc tên Hồ Chí Minh/ trời tan bóng tối, ấm năm canh.
Đồng bào Hơ rê thấy được tấm lòng của Bác, thấy "bụng Bác Hồ đẹp hơn nhiều"
Con chim Prắc kêu to/ Con chim Siên kêu nhỏ
Nước nhiều nguồn đã họp thành sông
Người khác nhau đã thành một chi
Ở mỗi ngả nhưng cùng một Bok Hồ
Nước chảy mãi về sông…
Hỡi hoa ê pang soi mình bến nước
Mày đẹp nhất rừng, mày đẹp nhất buôn
Nhưng bụng Bác Hồ còn đẹp hơn nhiều
- Bụng Bác Hồ đẹp hơn hoa ê pang
Bác Hồ dạy khắp nơi đoàn kết
Bụng Bác Hồ còn đẹp quý hơn chiêng
Bác Hồ bảo là cơm no áo tốt.
Và đồng bào đã thể hiện tấm lòng theo Bác, theo Đảng một cách chất phác:
Người Tây Nguyên/ Đã giữ rừng. Đốn cây to phải ngã
Tát suối sâu phải cạn
Nhổ cỏ không còn rễ dưới chân
Người Xơ đăng không theo con cú vọ
Người Nơ ngao không theo con diều hâu
Chúng ta theo hoa đỏ/ Chúng ta theo Cụ Hồ.
(Đồng bào Hơ rê)
Bác Hồ ơi! Bác Hồ ơi!
Người Ka dong nhớ lời Bác dạy
Cố bắt con vắt cho sạch
Cố đuổi con cú cho bay
Mong Bác về rừng núi Tây Nguyên
Để dân làng mang chiêng cồng đi đón
(Đồng bào Ka dong)
Đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, Mông... ở Việt Bắc, Tây Bắc luôn cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho họ:
Đất nước ta có Cụ Hồ
Cụ Hồ thương dân đất Mường ta, sông bể không bằng
Qua nghìn hoạn nạn mới được như ngày hôm nay
Đồng bào Khmer, Chăm, Hoa cũng luôn tin tưởng và biết ơn Bác:
Cụ Hồ với dân như chân với tay
Như chày với cối, như cội với cành
hay:
Nhưng rồi ngẫm lại mà coi
Có Đảng, có Bác, châu chấu đá voi lộn nhào
Hoặc đồng bào nói cụ thể hơn:
Ai về nhắn nhủ cùng ai
Có Đảng, có Bác chẳng sợ chông gai bùn lầy.
"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Lời Bác rất thấm thía. Biết nói làm sao hết những lời ca cất lên từ đáy lòng của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Bác.
-------------
4. Ca dao - dân ca Đà Nẵng nói chung được xem như một tổng thể những giá trị tinh thần do con người Đà Nẵng sáng tạo nên và tồn tại trong chính cuộc sống của họ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, người Đà Nẵng đã tạo nên một dòng văn nghệ dân gian phong phú, nhiều thể loại, phản ánh đa dạng cuộc sống và chiến đấu trên quê hương, trong đó hình ảnh Bác Hồ chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong thể loại ca dao-dân ca Đà Nẵng
. Điều có được do tư tưởng Bác đã gắn với cuộc sống và chiến đấu của người dân Đà Nẵng, gắn với những biến đổi to lớn diễn ra trên quê hương "Trung dũng kiên cường" và đồng thời gắn với những biến cố trọng đại, hào hùng của lịch sử dân tộc nói chung và Đà Nẵng nói riêng.
Kế thừa ca dao-dân ca truyền thống, hẳn đó là một quy luật khách quan, và thực tế văn nghệ dân gian Đà Nẵng đã kế thừa truyền thống ngợi ca danh nhân lịch sử, bởi Bác là vị anh hùng giải phóng dân tộc đã trở thành nhân vật lịch sử vĩ đại, tồn tại trong đời sống tinh thần của người dân, từ đó tạo nên dấu ấn trong thi pháp của một dòng ca dao - dân ca Đà Nẵng.
Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, tự do không còn nữa, Bác đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc. Cuộc đấu tranh dài gần suốt thế kỷ XX, thực tiễn như vậy, Bác đã trở thành thiêng liêng, gần gũi, do thế hình ảnh Bác đã đi vào ca dao-dân ca Đà Nẵng như một cách riêng thể hiện bản lĩnh dòng văn học này. Người Đà Nẵng với Bác trước hết là lòng kính yêu, ngưỡng mộ:
Những đêm đại hội quê hương
Cháu ngồi nhớ Bác tình thương ngọt ngào
Cháu nhìn vầng trán cao cao
Nhìn đôi mắt Bác như sao sáng ngời
Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi
Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi.
Với Đà Nẵng, người dân nơi đây còn gọi bác là vị cha già dân tộc đã đem lại cho họ toàn bộ cuộc sống - những điều kiện để tồn tại và phát triển - thẳng lưng làm người:
Dân ta được sự ấm no
Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch đưa đến bến bờ vinh quang
hoặc:
Nhờ ai sáng lập cán cân
Bác Hồ vĩ đại góp phần Đảng ta
Sinh ra như thể một cha
Bình quyền, bình đẳng giao hòa ý chung.
Bác đã trở thành niềm tin và là cảm hứng sáng tạo trong ca dao - dân ca Đà Nẵng:
Lời cha sáng tỏ như gương
Lời cha vạch bảo bước đường quang vinh
Đọc lời cha hiệu triệu từng câu
Lời cha tha thiết làm sao
Hình cha con thấy biết bao dịu dàng
Cha yêu tất cả miền Nam
Về sau đi trước trên đường đấu tranh.
Đấy là những lời ca, qua điệu hò, điệu ru truyền thống được lưu truyền, giữ lại, tiếp biến vào tương lai trong những làng quê, phố phường Đà Nẵng: Hòa Mỹ, Phú Lộc, Thanh Khê, Hà Thân, Mân Quan, Hòa Hải, Hòa Quý, Vân Dương, Phong Lệ, Lai Châu, Đông Phước, Nghi An, Hố Quê...vào tận nội thành, len vào các chợ: chợ Hộ, chợ Cồn, chợ Mới, Cẩm Lệ, Túy Loan… Và ngay trên sông Hàn, tiếng hò khoan cất lên trên mỗi chuyến đò ngang nối hai bờ đông tây phố thị, tỏa vào đêm thiết tha, sâu lắng hình ảnh Bác vọng vào lòng người dân Đà Nẵng.
Hình thành nên những cấu trúc ca dao-dân ca có dáng dấp riêng xuất phát từ thực tiễn cách mạng, thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm tại Đà Nẵng là một cách ứng xử nghệ thuật mang dấu ấn phong cách và thi pháp riêng trong không gian vừa có sắc thái của con người, vừa có đất đai, ruộng đồng, bờ bãi, đồi gò. Những cuộc hát hò dân gian, diễn ra ngay trên quê hương Đà Nẵng cho thấy hoàn cảnh xuất xứ và lưu diễn của những bài ca là phản ảnh chân thực, sinh động về sự tiếp nối truyền thống ca dao-dân ca ngợi ca lãnh tụ, những nhân vật lịch sử vĩ đại mà Bác Hồ là một người như thế. Không chỉ ở những cuộc hát hò mà đôi khi người Đà Nẵng cất vào tim mình, vào trí nhớ mình, vào hầm bí mật... và đọc cho nhau nghe trong lúc chiến đấu với quân thù.
Đặc điểm dễ nhận thấy trong ca dao-dân ca Đà Nẵng về Bác Hồ là tính thời đại, chính đặc điểm này cho thấy sự phát triển từ yếu tố truyền thống đi lên, nó gắn liền với ca dao-dân ca truyền thống của xứ Quảng nói chung. Những bài ca một thời tập trung vào yếu tố thân phận bẽ bàng đã lùi dần không còn nữa, mà đã hình thành nên cách tư duy mới, với những chủ đề khác nhau đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hình thức và nội dung ca dao-dân ca Đà Nẵng đã khác trước. Điều này cho thấy về mặt thi pháp vừa có phần của truyền thống, đồng thời có phần của khu vực, miền, vùng đất cả về phong cách thể hiện mới. Từ thể loại thơ ca 6/8 được chuyển hóa thành nhiều cách khác nhau không lặp lại lối cũ, chính hình thức biểu hiện đó cho biết cách xây dựng hình tượng Bác Hồ sao cho phù hợp và mang yếu tố thẩm mỹ nhất với thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và tư duy logic của nhân dân Đà Nẵng ngay khi họ đang chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Nhờ ơn Đảng, Bác đắn đo
Lãnh đạo dân tộc, lái đò vinh quang
Ngày nay cờ đỏ sao vàng
Tung bay khắp nước hân hoan đón chào.
Thì đấy là hình thức sử dụng ngôn ngữ, cách tư duy theo kiểu con người Đà Nẵng trong nghệ thuật dân gian có thể chưa hay nhưng biểu hiện vượt qua cái cũ để vươn lên một tầm mới phát triển hơn, cảm nhận rộng hơn, bao quát, phong phú hơn.
Dù thế nào thì thực tiễn cho thấy truyền thống cũ về ngợi ca nhân vật lịch sử trong ca dao-dân ca Đà Nẵng có tầm rộng lớn toàn diện và vĩ đại của Bác được phản ánh thông qua lăng kính thẩm mỹ dân gian của nhân dân. Từ đấy lan truyền từ quận huyện này sang quận huyện khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc ghi chép lại vốn văn học này ở Đà Nẵng mới chỉ làm được một ít, càng đi sâu tìm kiếm ta càng gặp trong lòng Đà Nẵng ít nhiều những bài ca ca ngợi Bác, có thể nói chiếm một khối lượng lớn trong kho tàng ca dao-dân ca Đà Nẵng 1.
Kế thừa là quy luật cơ bản của sự phát triển nói chung, trong đó ca dao-dân ca về Bác Hồ ở Đà Nẵng cũng đã kế thừa yếu tố cổ truyền để phát triển, nó chỉ rõ về bản chất vốn có của ca từ được nâng lên cho phù hợp với sự vận động của thực tiễn để tồn tại cả hình thức biểu hiện trong dân gian để diễn xướng. Ca dao-dân ca qua hai cuộc kháng chiến còn giữ lại được yếu tố hợp lý về ngôn ngữ, thể loại, phương thức tư duy, tạo điều kiện ra đời cho sự sáng tạo mới, khái quát hơn hình tượng nhân vật lịch sử, cũng đồng thời mang yếu tố thẩm mỹ cùng với thời đại. Cho nên, xét đến cùng không kế thừa, không có sự phát triển. Kế thừa ca dao-dân ca truyền thống không chỉ là ý thức phản ánh hiện thực qua các hình thức cải biên mà còn là niềm tự hào về Bác, có Bác. Đấy là nét mới thể hiện trong ca dao-dân ca Đà Nẵng (có thể cho đây là bản lĩnh của người dân Đà Nẵng khi phát triển nội dung ca ngợi Bác Hồ ngay trong lòng địch, dưới sự kiểm soát và truy lùng rất gắt gao của địch), nhờ đó mà qua bao thăng trầm của lịch sử, hình tượng Bác Hồ lại cứ long lanh lên trong quá trình sáng tạo:
Giặc kia khủng bố lu bù
Lòng dân vẫn một mùa thu Bác Hồ
Tình quân dân, nghĩa đồng bào
Ngàn câu cổ vũ ghi vào trong tim.
Đối với người Đà Nẵng, phải một vùng đất "trung dũng kiên cường" mới có thể phát triển khắp ruộng đồng bờ bãi, phố thị làng quê những làn điệu ca dao-dân ca ngợi ca Bác Hồ đẹp và đầy chất trữ tình như thế. Tiếp bước truyền thống của vùng đất Quảng, phải một vùng đất tự hào về quá trình chiến đấu, về một vùng văn học mới có thể tuyên thệ rằng:
Đánh cho quân giặc phải nổi trôi
Đến ngày giải phóng toàn diện phục hồi tự do.
Giá trị dân gian ấy đã kế thừa cho mỗi người dân Đà Nẵng hôm nay rằng đấy là khí phách, là tâm hồn con người hòa vào xứ sở, là một tài sản tinh thần vô giá mang theo cho đến ngàn sau. Chính đó là bản sắc, cội nguồn lắng lại trong mỗi người dân Đà Nẵng và chính thế mà họ vẫn ước mong được nghe các làn điệu dân ca, được tắm hồn mình trong văn hóa quê hương, xứ sở:
Ngày nay được thống nhất sơn hà
Nhìn xem cờ đỏ thật là vinh quang
Đồng bào ơi, nhớ lời Bác dặn đinh ninh
Quân dân đoàn kết,
độc lập, hòa bình muôn năm.
Có thể nói rằng, ca dao-dân ca Đà Nẵng ngợi ca Bác Hồ được tiếp tục từ ca dao dân ca truyền thống của vùng về nhân vật lịch sử, sự tiếp nối nầy làm cho thể loại phát triển thêm, tạo nên cách riêng mang đặc điểm khu vực về vùng đất, con người, về ngôn ngữ biểu hiện và hình thức giao lưu chuyển tải giá trị nội dung. Nếu chịu khó lục lại kho tàng ca dao-dân ca quanh ta, ta sẽ tìm thấy ở đó tiến trình phát triển của nghệ thuật thơ ca dân gian Đà Nẵng.
-------------
5. Hình ảnh Bác Hồ kính yêu luôn là đề tài của văn học nghệ thuật Việt Nam. Đặc biệt, trong tâm tưởng của đồng bào các dân tộc thiểu số, thì Bác Hồ luôn là một hình ảnh đẹp không thể có gì so sánh nổi. Vì thế, có gì đẹp hơn, tự hào hơn khi mỗi một người con dân đất Việt nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng từ núi rừng, hải đảo xa xôi đến tận bưng biền Đồng Tháp, hay chót mũi Cà Mau và cả tận địa đầu Móng Cái đã dành cho Người những vần ca dao chan chứa nghĩa tình.
Đồng bào các dân tộc có cách nói mộc mạc, chân chất; cách so sánh liên tưởng thật cụ thể để diễn tả một vấn đề gì đó, hay để bộc lộ một tình cảm, một nỗi lòng đối với những con người mà họ tôn kính. Đồng bào Tây Nguyên đã gửi lòng thương yêu, trìu mến của mình đối với Bác Hồ bằng những vần thơ mộc mạc và giản dị, giản dị như chính con người, lối sống, tiếng nói hàng ngày của đồng bào: “Hồ Chí Minh, Người là con sông lớn/ Người là mặt trời, Người là mặt trăng/ Mùa lạnh nhắc tên Hồ Chí Minh, cái bụng ấm/ Mùa nắng nhắc tên Hồ Chí Minh, mây thêu mặt trời hồng/ Mùa thu nhắc tên Hồ Chí Minh, mây lắng trời trong/ Mùa xuân nhắc tên Hồ Chí Minh, cây cỏ đâm nhựa, trổ bông”. Đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Tày, Nùng, Mông ở Việt Bắc, Tây Bắc nơi “núi rừng trùng trùng điệp điệp, điệp điệp trùng trùng xa hơn tầm con mắt, nước non non nước đẹp hơn tranh mắt nhìn không chán” cũng luôn cảm nhận được tình cảm của Bác Hồ dành cho họ. Họ thường dạy cháu con rằng: “Đất nước ta có Cụ Hồ/ Cụ Hồ thương dân đất Mường ta, sông bể không bằng”; hay: “Cụ Hồ cái bụng tốt thay/ Đưa đến chòm này cán bộ giỏi giang”. Và vì thế, trong con tim, tâm khảm họ, dù ra nương hay lên núi luôn ngân lên câu ca: “Lên rừng nhắc tên Hồ Chí Minh, quên cả chân chồn, leo dốc nhanh/ Đến rẫy nhắc tên Hồ Chí Minh, tra bắp suốt ngày không thấy mệt/ Bữa ăn nhắc tên Hồ Chí Minh, đôi đũa và cơm như và ngọc/ Nằm ngủ nhắc tên Hồ Chí Minh, Trời tan bóng tối, ấm năm canh”. Thật là kì lạ, cách diễn tả, lối nghĩ suy của đồng bào các dân tộc thiểu số, dù là từ rẻo cao miền Tây Bắc hay ở núi rừng trập trùng đất Tây Nguyên đều như một. Bởi nhân dân ta dù miền ngược hay miền xuôi, dù là người Kinh hay người Thượng, tất cả “Lòng dân chung một Cụ Hồ; Lòng dân chung một thủ đô; Lòng dân chung một cơ đồ Việt Nam”. Đến với đồng bào Bình-Trị-Thiên, chúng ta vô cùng xúc động khi được đọc lại những vần ca dao nói lên tình cảm sâu nặng của nhân dân đối với Bác Hồ: “Cụ Hồ với chúng mình như tình phụ tử/ Cụ hi sinh suốt đời để phụng sự nhân dân/ Với tác phong liêm, chính, kiệm, cần/ Tấm lòng đức độ muôn dân được nhờ”. Lòng biết ơn vô hạn đó đối với Bác có khi được nhân dân Bình-Trị-Thiên mượn hình thức một bài ca dao cổ để thổ lộ nỗi niềm: “Em lên rừng lấy miếng gỗ trắc/ Đem về em khắc bốn câu thơ/ Câu thương, câu nhớ, câu đợi, câu chờ/ Dẫu non mòn, biển cạn, ơn nghĩa Cụ Hồ không quên”. Còn với người Khmer, người Chăm, người Hoa... muôn triệu con tim của đồng bào các dân tộc này cũng đều hướng về Bác, tin tưởng và biết ơn Bác vô cùng. Có lẽ trong chông gai, gian khổ, hẳn ai cũng vững lòng khi đọc được câu ca dao: “Ai về nhắn nhủ cùng ai/ Có Đảng, có Bác chẳng sợ chông gai, bùn lầy”; hay “Bác Hồ với dân như chân với tay; Như chày với cối như cội với cành”. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống lại quân xâm lược thật không cân sức, mà theo như cách nói của chúng là dám đem “châu chấu đấu voi”. Dẫu vậy, đồng bào ta vẫn luôn nhắn nhủ nhau: “Nhưng rồi ngẫm lại mà coi/ Có Đảng, có Bác, châu châu đá voi lộn nhào”.
Cũng như bao dân tộc ít người khác, người dân Jrai, Ba Na cũng có những nghĩ suy về Bác rất độc đáo, rất cụ thể, rất sinh động và cũng rất riêng. Họ nghĩ về Bác, họ tin vào Bác, bởi với họ, Bác luôn là hiện thân của những gì tốt đẹp nhất. Suốt cuộc đời mình “Bác muốn tất cả được ấm no; Bác muốn tất cả hiểu làm ăn; Bác muốn tất cả phải bình đẳng” nên đồng bào vô cùng kính trọng Bác. Họ xem Bác là “Người già làm to nhất; Người đứng đầu đoàn kết; Người lãnh tụ đất Việt, tên vang lừng nơi nơi...”. Tin vào Bác, nghe theo Bác, cũng như đồng bào các dân tộc ít người trên khắp nẻo đất Việt, người Jrai, Ba Na đã sát cánh cùng nhau, gan dạ, mưu trí, anh dũng kiên cường trong chiến đấu. Họ mong muốn có được một ngày nào đó, Bắc Nam xum họp một nhà, Bác sẽ có điều kiện vào thăm và họ sẽ được tận hưởng những phút giây hạnh phúc nhất trên đời là tận mắt chứng kiến, trò chuyện với con người “tốt đẹp nhất trên đời”. Vì thế, khi nghe tin Bác mất, họ vô cùng xúc động, xót thương. Thế là từ nay, Wa Hồ, Bok Hồ của buôn làng không còn nữa. Họ đã thể hiện nỗi tiếc thương đó theo cách riêng của mình. Họ cho rằng, Bác mất đi thì khác nào “Cục vàng to tướng đã rơi xuống nước; Bó hoa tươi thắm đã rớt ao đầm”. Chính vì thế, nỗi mất mát đó đối với họ không thể có cái gì bù đắp được. “Ai ai cũng nhớ, Ai ai cũng buồn; Mọi người tiếc thương, Khóc và để tang”. Bác mất đi để lại cho họ nỗi cô đơn, trống trải, cả buôn làng “Im lặng và vắng vẻ; Không còn nghe tiếng, Không còn gặp người”. Nhưng rồi, niềm tin vào Bác, vào con đường mà Bác đã lựa chọn đã dẫn lối cho họ đi, nên dẫu “Bác Hồ đã mất; Đường lối Bác vẫn còn” cho nên họ lại tiếp tục động viên nhau “biến đau thương thành việc làm cụ thể”, họ bảo ban nhau làm việc thật nhiều, hành động thật tốt để Bác được vui lòng, để non sông được liền một dải, hai miền Nam Bắc cùng nhau xum vầy. Và khi nỗi niềm “khao khát trăm năm mãi đợi chờ” đã đến và khi cả nước ta cùng reo vang một tiếng reo náo nức Bác Hồ ơi! Toàn thắng đã về ta”, thì đồng bào Jrai, Bahnar cũng như đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung cùng thể hiện quyết tâm: “Ta noi theo lời Bác đã dặn; Ta cố gắng làm rẫy cho nhiều; Để xây dựng gia đình no ấm; Để xây dựng bản làng tươi vui”.
Dù năm dù tháng đi qua, dẫu núi kia có mòn và sông kia có cạn, nhưng tình cảm của đồng bào các dân tộc với Bác Hồ kính yêu thì vẫn mãi mãi đẹp như câu ca dao của nhà thơ miền Nam Bảo Định Giang: “Tháp Mười đẹp nhất bông sen; Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.